Mô tả về Ngỗng trán trắng: loài chim hoang dã này có gì đáng chú ý?

Ngỗng trán trắng (tên cũ là ngỗng) là đại diện của thế giới hoang dã. Nó không được nhân giống trong các trang trại tư nhân. Về các đặc điểm khác biệt, tuổi thọ, sự phân bố, lối sống và sự thuần hóa – xa hơn nữa.

Lịch sử xuất xứ

Được biết, loài ngỗng mặt trắng xuất hiện vào năm 1895 trên lãnh thổ Liên Xô. Theo các nhà khoa học, những con chim bay đến từ Biển Caspian, sự thay đổi dân số như vậy có thể xảy ra do mực nước biển dâng cao. Cư dân Pavlograd là những người đầu tiên nhìn thấy chúng, sau đó người ta nhìn thấy những con chim ở lưu vực Ural.

Cần lưu ý rằng kể từ năm 2008, số lượng ngỗng đã giảm mạnh, nguyên nhân là do diện tích lúa mì vụ đông giảm và hoạt động săn bắt ngỗng mặt trắng tăng cường.

Con ngỗng này được dùng làm “nguyên liệu” để nhân giống một giống nội địa mới “Pskov Bald”. Những con chim này là kết quả của việc lai giữa những con ngỗng địa phương với những đại diện mặt trắng hoang dã đã được thuần hóa.

Đặc tính

Loài chim nước thuộc họ vịt này rất giống với ngỗng xám, nhưng có kích thước khiêm tốn hơn. Phần trên của cơ thể được phủ lông màu xám nâu, phần dưới màu nhạt, phần đuôi màu trắng. Ở một con chim trưởng thành, đã vượt qua mốc 4 tuổi, các đốm đen ngang xuất hiện ở bụng và ngực trên. Những con ngỗng càng già thì chúng càng lớn.

Điểm đặc biệt là có một đốm trắng trên đầu ở vùng trán. Tuy nhiên, nó xuất hiện 2-3 năm sau khi sinh. Vì vậy, việc phân biệt một con chim ở độ tuổi trẻ hơn với một con ngỗng xám là một vấn đề. Điểm này có thể nhìn thấy rõ ràng trên nền bộ lông có đốm đen và được bao quanh bởi một đường viền tối. Kích thước của nó có đường kính khoảng 26 mm.

Các tính năng khác:

  • Mỏ. Chiều dài đạt 40-55 mm. Ở ngỗng trưởng thành, nó có màu không đồng nhất – màu thịt (màu be) với các vết màu hồng, ở cuối có một “móng vuốt” màu trắng. Ở các đại diện trẻ, các vết có màu xám.
  • Bàn chân. Màu sắc của bàn chân cũng phụ thuộc vào độ tuổi của ngỗng. Ở động vật trẻ chúng có màu vàng cam, ở thế hệ cũ chúng có màu đỏ cam. Bạn cũng có thể phân biệt con chim bằng cái đuôi nhô ra dưới đôi cánh gấp lại.
  • Chiều dài cơ thể. Nó thay đổi từ 60 đến 90 cm, trong khi ngỗng nhỏ hơn con đực. Sải cánh đạt tới 1,5 m. Đến mùa thu, trọng lượng của chim đạt 2,5-3 kg.

Phần lớn ngỗng sống trên cạn, điều này không ngăn cản chúng trở thành thợ lặn và bơi lội xuất sắc. Chúng thường bay đến hồ và sông để tưới nước.

Phân bố và sinh cảnh

Con ngỗng cảm thấy tuyệt vời ở vùng lãnh nguyên và vùng lãnh nguyên rừng, cũng như trên các đảo Bắc Cực. Chúng có thể được tìm thấy ở các khu vực phía bắc – Taimyr, Novaya Zemlya, Yamal, bờ biển phía tây của Greenland, Âu Á và Bắc Mỹ.

Những con “mặt trắng” của châu Âu di cư đến các khu vực phía nam để trú đông – đến lãnh thổ Biển Đen, Biển Caspian và Địa Trung Hải. Một phần ngỗng bay đến châu Á (đông nam và nam). Dân số Bắc Mỹ chuyển về phía nam đất liền vào mùa đông.

Khi chọn nơi trú đông, sự hiện diện của ao chứa không đóng vai trò chính đối với ngỗng. Khi di cư, chúng thích dừng lại gần hồ và sông, nơi chúng tìm kiếm thức ăn và nghỉ ngơi.

Lối sống và tình trạng bảo tồn động vật hoang dã

Trong môi trường tự nhiên, tuổi thọ của ngỗng là 17-20 năm, trong điều kiện nuôi nhốt có thể tăng lên 30 năm. Vì số lượng ngỗng của loài này không gây lo ngại cho các chuyên gia nên chúng không được bảo vệ và được phép săn bắn.

Dinh dưỡng và phát âm

Ngỗng mặt trắng thích thức ăn thực vật – tảo, cây thân thảo, quả mọng, đuôi ngựa. Chúng thường có thể được nhìn thấy trên những cánh đồng được gieo trồng ngũ cốc. Thường thì điều này trở thành nguyên nhân gây ra “tình huống xung đột” giữa con chim và con người.

Những thợ săn có kinh nghiệm có thể dễ dàng phân biệt ngỗng mặt trắng với các đại diện di cư khác không chỉ bằng chuyến bay mà còn bằng giọng nói. Anh ta cũng cười khúc khích, nhưng ngày càng to hơn.

Làm tổ

Loài chim nước này đến làm tổ vào lần cuối cùng – vào tháng 5 đến đầu tháng 6, khi lớp tuyết phủ ở những nơi làm tổ bắt đầu tan. Nếu mùa xuân đến muộn thì đàn không tan đàn. Các loài chim ở cùng nhau trên các vùng nông và bờ nước, chờ đợi điều kiện thuận lợi để đẻ trứng và sinh sản cho gà con.

Chúng làm tổ thành từng đàn rải rác. Tổ của mỗi cặp cách xa nhau. Các cặp vĩnh viễn được hình thành ngay cả trước khi đến tuổi dậy thì, khi được hai tuổi.

Những con non được một tuổi và những con chim không có kế hoạch sinh sản sẽ lang thang trong vùng lãnh nguyên trong một thời gian dài. Cuộc di cư của chúng bị trì hoãn, nhưng vào mùa hè, chúng đến ồ ạt trên các hồ và đồng bằng cỏ.

Con cái làm tổ giữa những tảng đá và gò đất trên ngọn đồi nhỏ hoặc gần bụi rậm. Thường thì chúng đến gần các loài chim săn mồi – chim ưng peregrine, thuyền kayak và được chúng bảo vệ. Bên trong tổ, nó lót những ngọn cỏ khô và tươi bằng lông tơ của riêng mình, làm lớp lót mềm mại cho thợ xây. Điều này giúp tránh làm hỏng trứng.

Trong ly hợp, bạn có thể đếm từ 3 đến 6 quả trứng trắng. Vỏ sẫm màu trong quá trình ủ. Thời gian ủ bệnh kéo dài 28 ngày. Con ngỗng con nở ra từ trứng trong vòng 48 giờ.

Ly hợp ngỗng mặt trước màu trắng

Chỉ có con cái ấp con, con đực thường xuyên đề phòng. Anh ta bảo vệ con ngỗng bằng tổ và khu vực xung quanh. Nếu con ngỗng cần rời khỏi tổ, nó sẽ che khối xây bằng một con lăn làm bằng lông tơ.

Cha mẹ tương lai cùng nhau đi kiếm ăn nên trong một thời gian, khối xây vẫn không được bảo vệ. Trong môi trường tự nhiên, ngỗng không có nhiều kẻ thù ở vùng lãnh nguyên. Thủ phạm chính là cáo Bắc Cực, loài thích ăn trứng và gà con.

Nhân giống con cái

Khi gà con xuất hiện, chim bố mẹ phân bổ sự chăm sóc và chăm sóc như nhau. Họ bảo vệ và bảo vệ trẻ sơ sinh trong hai tháng. Ngỗng con thường xuyên nằm trong tầm quan sát của bố mẹ chúng, mặc dù thực tế là rất sớm chúng bắt đầu tự kiếm ăn và đến cuối tháng 8 chúng bay.

Trước khi bắt đầu chuyến hành trình dài vào mùa thu, cha mẹ huấn luyện con cái để chúng có thể chịu đựng được chuyến bay dài khó khăn.

lột xác

Ngỗng trưởng thành bắt đầu rụng lông khi con non bắt đầu trưởng thành. Gà con lột xác trong năm đầu tiên của cuộc đời 2 lần – khi lông tơ chuyển thành lông và trước khi mùa thu chuyển sang mùa đông.

Ngay khi những con chim trưởng thành thay bộ lông vào mùa hè, chúng lại tụ tập thành đàn. Họ dành phần lớn thời gian để tìm kiếm thức ăn. Trước khi rời đi, họ cần phải tăng cường sức mạnh. Ngỗng kiếm ăn mạnh 2 lần một ngày vào buổi sáng và buổi tối, bay từ nơi này đến nơi khác.

Thuần hóa và năng suất

Ưu điểm của việc nuôi ngỗng hoang dã trong trang trại là tính khiêm tốn của chúng. Vào mùa hè, chúng có thể liên tục ở trên đồng cỏ trống và không cần cho ăn thêm. Ngỗng mặt trắng cũng có khả năng miễn dịch cao đối với các bệnh khác nhau. Anh không sợ sương giá, không cẩn thận trong việc chăm sóc.

Trong 3 tháng hè, ngỗng có thể tăng tới 4 kg trọng lượng sống. Thịt của chúng ngon và mềm. Tuy nhiên, con cái có năng suất trứng không cao nên không thích hợp làm gà đẻ.

Ngỗng trán trắng là loài chim xinh đẹp chỉ sống trong tự nhiên và trở thành chiến lợi phẩm đáng mơ ước của những người thợ săn. Một đàn ngỗng di cư có thể gây rắc rối cho người nông dân khi “chăn thả” trên cánh đồng lúa mì. Nhìn chung, ngỗng mặt trắng có tính cách điềm tĩnh và hòa đồng khi ở gần các trang trại. Nhưng mục đích của họ là không tham gia chăn nuôi.

Xem video về những điều kiện thuận lợi mà nhà lai tạo đã tạo ra cho Ngỗng mặt trắng:

Loại ngỗng này không được nuôi trong các trang trại đặc biệt, tuy nhiên, những người quyết định làm điều này nên lưu ý rằng ngỗng hoang dã được thuần hóa có thể sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt khi tạo điều kiện thuận lợi cho chúng nhưng chúng vẫn giữ được bản năng tự nhiên. Để những con chim không bay đi vào mùa thu, đôi cánh của chúng được cắt bớt.

Bạn có thể đánh dấu trang này